Đã qua rồi thời kì đấu tranh gay gắt giữa
hai phe phái giáo điều, một bên là giáo điều phân tâm học gồm những người cho rằng
phát kiến của Freud là chân lýtuyệt đối,
một bên cho rằng khôngnhững sai lầm mà
còn phi lý nữa, phải gạt bỏ hoàn toàn. Trong một thời gian khá dài có đến gần nửa
thế kỉ những hội Phân tâm họchoạt động
như những giáo phái, khai trừ những hội viên bị kết án là sai lệch và ngược lại
1 số người xem là tà đạo. Điển hình là trường hợp của Vilhem Reich và những năm
30, một hội viên hội Phân tâm học Đức đồng thời là Đảng viên Đảng cộng sản Đức.
Ông Reich đề xuất ý kiến là có thể kết hợp hai học thuyết của Marx và
Freudđể lý giải các vấn đề xã hội và
con người. Kết quả Reich bị cả hai bên khai trừ.
Ngày nay đại đa số độc giả nghĩ
rằng:
-Freud đã có thiên tài phát hiện ra nhiều vấn đề
mới đề xuất một số khái niệm tâm lý giúp con người hiểu sâu về con người, và bất
kì ai quan tâm đến con người đều phải nắm được.
-Mặt khác trong lúc chuyển sang suy luận và vận dụng
cho thực tiễn, Freud và các đồ đệ về sau đã có nhiều kết luận và cách làm khó
chấp nhận đứng về phía khoa học.
Ở
đây chúng ta không bàn đến những vấn đề xã hội và triết lý mà Freud đã đề cập đến
mà chỉ đứng về góc độ tâm lý học. Đặc biệt những nhà tâm lý học (thường gọi là
tâm thần học) là những người chuyên theo dõi lâm sàng chăm chữa những tâm ệnh
đã có những nhận đinh có thể nói là chặt chẽ nhất đối với Phân tâm học, vì một
mặt họ vận dụng một số khái niệm và phương pháp của Freud để chữa bệnh, đồng thời
lại đối chiếu Phân tâm học vào thực tiễn và lý luận của tâm bệnh học. Phải nói
tâm bệnh học, nhất là của người lớn có hai đặc điểm.
-Một là bắt nguồn từ y học, vận dụng những khái
niệm cơ bản và phương pháp luận của y học thực nghiệm.
-Hai là thường xuyên tiếp xúc với những bệnh loạn
tâm hoặc những rối loạn hành vi nghiêm trọng, chống đối, quấy phá xã hội hơn là
chứng nhiễu tâm (névroses)
Trong y học bao giờ cũng phải tì cho ra cơ
sở vật chất, thương tổn gây ra bệnh chứng nếu không thì chưa thể nói đến khoa học.
Chưa tìm ra thì phải nghĩ ra đủ cách đưa vào những phát minh vật lý, hóa học để
phát hiện cho ra vết tích của bênh chứng. Y học không phủ nhận vai trò của những
yếu tố tâm lý, nhưng không chấp nhận quan điểm tâm lý thuần túy, chỉ biết đến
những cơ cấu và cơ chế tâm lý, bỏ quên mất sinh lý. Freud xuất thân từ một bác
sĩ chuyên về khoa thần kinh đã có những công trình về thần kinh học tiến hành
theo đúng phương pháp y học và về lý thuyết ông cũng khẳng định sinh học là chỗ
dựa quan trọng của tâm lý học, ông không cho rằng tâm lý học là một lĩnh vực độc
lập với những quy luật riêng. Điều ấy đúng song về sau gần như bản thân ông và
nhiều đồ đệ của ông trong lúc xây dựng học thuyết không hề đặt quan hệ với sinh
học.
Phương pháp y học là thực nghiệm, mỗi một
điều suy luận phải được chứng nghiệm, hoặc qua thống kê, hoặc qua thực nghiệm.
Đề xuất khái niệm. Xây dựng học thuyết bao giờ cũng phải được bản thân và nhiều
người khác kiểm tra, chứng nghiệm.
Nhiều nhà tâm bệnh học cho đây là điểm yếu
nhất của Phân tâm học làm cho học thuyết này giống một triết lý siêu hình hay
thuộc văn học hơn là khoa học. Đặc biệt phân tâm học được số đông hưởng ứng,
say mê tiếp nhận một cách mù quáng chính là do tính không khoa học đó.
Những đòi hỏi về tính khoa học là xác đáng,
và đích thị nhiều nhà Phân tâm học đã tỏ ra thiếu tính khoa học, những sản phẩm
của họ mang nhiều tính hư cấu không thuyết phục, măc dù nhiều khi đọc thấy thú
vị. Ở đây cũng phải nói lên một số vấn đề quan trọng là tính khoa học trong tâm
lý cũng như những môn khoa học khác về con người, có nhất thiết phải vận dụng
những phương pháp thực nghiệm như trong sinh học không? Hay tâm lý học khó mà
hoát khỏi ảnh hưởng của triết học và văn học? Dù sao đã gọi là tâm lý học thì
nhất thiết phải cố gắng vận dụng tối đa phương pháp thực nghiệm.
Thí dụ như giải đáp một câu hỏi: Trong xã
hội Việt Nam
có mặc cảm Odíp không? Không thể nói chung chung xã hội ta khác với xã hội thời
phương tây thời Freud mà bảo là không có. Đó chỉ là một kiểu suy luận thiếu
tính khoa học. Thực ra muốn trả lời câu hỏi đó phải nhiều năm sử dụng phương
pháp của Freud, quan sát theo dõi nhiều ca rồi mới kết luận được có hay không
có. Cũng như không thể dùng con mắt bình thường mà kết luận có vi khuẩn này, vi
khuẩn kia mà không vẫn dụng kính hiển vi và những phương pháp cấy nuôi hay miễn
dịch học rồi mới kết luận được.
Để cụ thể hóa những nhận xét khái quát nói
trên, chúng tôi xin trình bày ý kiến của một nhóm tâm bệnh học người anh qua
quyển sách “tâm bệnh học lâm sàng” (Clinical Psychiatry).
Freud đã tìm cách lý giải thoát khỏi những
điểm khó khăn nhất của tất cả những ai muốn đưa tâm bệnh học vào khuôn khổ của
y học cổ điển. Freud là một nhà tâm thần kinh học của thế kỉ 19 cho nên học thuyết
của ông có hai tính chất.
-Tính máy móc tức là muốn đi thẳng từ nguyên nhân
đến kết quả với con đường nhân quả đơn tuyến một chiều.
-Tính nhị nguyên đối lập Tâm và Thể.
Bệnh án gốc của Freud là một ca hystêri được
chữa bằng thôi miên. Trong một buổi thôi miên bệnh nhân sống lại một sự cố từ
thời bé, đã quên từ lâu, sống lại với cảm xúc sôi động và sau đó chứng bệnh đã
giảm hẳn. Từ đó Freud đề xuất ra quan niệm về vô thức, khái niệm trấn áp và luận
điểm cho rằng những cảm xúc bị trấn áp từ xa xưa có thể tác động đến cách đối
phó với những sự kiện hiện tại. Đối với thời ấy những quan điểm ấy mang tính
cách mạng là một tiến bộ lớn.Ngày nay,
dưới hình thức này hay hình thức khác những điều ấy được đại đa số công nhận.
Trong những trường phái tâm bệnh học khác chú trọng đến mô tả những rối nhiễu
tâm lý, tác động qua lại giữa nhân cách con người với môi trường xã hôi. Quá
trình triển khai học thuyết dẫn đến chủ nghĩa tâm lý thuần túy, bỏ qua những yếu
tố thực thể và cơ địa rồi chỉ tập trung vào những chứng nhiễu tâm đặc biệt
hystêri và tâm trạng lo hãi. Có những phát hiện quả là thiên tài, nhưng tự biện
không có gì kìm hãm, kiểm nghiệm. Lúc đầu Freud còn tìm cách lấy lâm sàng làm
cơ sở cho học thuyết nhưng về sau không hề thấy ông lo việc chứng nghiệm ấy nữa.
Kết quả cuối cùng là một hệ thống lý luận phức tạp, hầu như không liên quan gì
đến sinh lý và thần kinh học và cũng ít liên quan đến những dự kiến lâm sàng
ban đầu. Có những đồ đệ óc biệt phái đòi hỏi học thuyết phải được chấp nhận
toàn bộ hoặc phủ nhận, không thể cải biên một tí nào! Một thái độ chính thống cứng
nhắc như vậy không phù hợp với khoa học. Phân tâm học đã xâm nhập rộng rãi
trong dư luận khiến cho những người không chuyên môn viết về các đề tài này thường
đồng nhất Phân tâm học với tâm bệnh học. Các trường phái ở mỹ đã hào hứng năm lấy
là xem như có nhiệm vụ xuất trở lại cho Châu Âu mà họ xem như là lạc hậu. Trái
lại Châu Âu sau cao trào của những năm sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, thời
mà từ ngữ văn học của giới tri thức Châu Âu đầy rẫy Phân tâm học, thì nay phổ
biến dưới hình thức thô sơ dầu vấp phải sự phản bác mạnh mẽ của nhiều học giả.
Như Gruhle phê phán cơ sở lý giải của Phân
tâm học, vì trong nhiều trường hợp không phân biệt được đúng sai thế nào. Ông
xem học thuyết ấy như một kiểu chơi hấp dẫn gần với văn thơ, huyền thoại,
phương thuật, không thể xếp vào khoa học được. Điều ấy càng rõ trong học thuyết
của Jung hoàn toàn thờ ơ với tính khoa học và quan tâm nhiều hơn đến những mê
tín Á đông. Ông cho rằng bề ngoài duy lý của học thuyết Freudkhoác cái áo khoahọc, có lẽ là phương pháp chữa bệnh bằng niềm
tin hưu hiệu nhất ngày nay. Gruhle căm dặn chớ vội vàng kết luận từ những kết
quả chữa bệnh vì kết quả ấy có thể đạt được với những cách làm và tín ngưỡng
khác nhau. Jaspers cũng không thể tìm ra một tiêu chuẩn nào để phân định đúng
sai trong cách biện giải thao thao của phân tâm học, trong đó điều gì cũng có
thể đưa ra để nói ngược lại. Đôi khi Freud coi bệnh tật như là tội lỗi, đó là
thái độ phản y học, trái với đạo lý ngành Y. Trong một vài tác phẩm ông cho thấy
rõ xu hướng cuồng tín, năm lấy cách chăm chữa để áp đặt quyền hành lên tâm trí
người khác. Jaspers phản đối mạnh mẽ tính hẹp hòi của các hội và trường phái
phân tâm học đòi hỏi người nào muốn hành nghề phải qua một quá trình được ông
thầy phân tích cẵn kẽ. Đấy là một kiểu hy sinh tự do tư tưởng, giống như cách
tu luyện của đạo giáo. Jaspers nghĩ rằng như vậy khó mà phù hợp trong không khí
tự do của văn hóa phương tây.
Còn nữa....
Kim Phương
(Sưu tầm bài viết của cố Giáo sư Nguyễn Khắc Viện)