NT Foundation - CÁC BIỂU HIỆN NHIỄU TÂM Ở TRẺ EM  
CÁC BIỂU HIỆN NHIỄU TÂM Ở TRẺ EM
 

CÁC BIỂU HIỆN NHIỄU TÂM Ở TRẺ EM

BS. Nguyễn Khắc Viện

 

I. Định nghĩa

Là một tập hợp các rối loạn tâm lý có những tính chất chung sau đây:

1. Có những rối loạn hành vi tương đối nhẹ (đối lập với rối loạn tâm), sự toàn vẹn nhân cách còn được duy trì, sự tiếp xúc với bên ngaòi không bị suy giảm.

2. Người bệnh ý thức được tính chất bệnh lý của các rối loạn.

3. Các rối loạn này khả dĩ có thể hiểu được trong khuôn khổ hoạt động tâm lý thông thường, không phải có gì xa lạ xâm nhập vào như là hoang tưởng trong loạn tâm.

4. Các yếu tố tâm lý có vai trò nguồn gốc phát sinh ra chúng.

5. Luôn luôn có mặt trạng thái lo hãi vào lúc này hay lúc khác của sự phát triển.

 

II. Đặc điểm các biểu hiện nhiễu tâm ở trẻ em

1. Trẻ em là một sinh vật đang hình thành, cơ cấu tâm lý đang phát triển, chưa thành thục về nhân cách, vì vậy các tổ chức nhiễu tâm chưa sâu sắc, chưa ổn . Những triệu chứng nhiễu tâm mang tính chất nhất thời, đa dạng.

2. Trong quá trình phát triển tâm lý của trẻ, có những biểu hiện nhiễu tâm nhẹ, có thể xem là bình thường vào những lứa tuổi nhất định như ám sợ bóng tối lúc 2 tuổi, sợ súc vật lớn lúc 3 tuổi, sợ các con vật nhỏ lúc 4 hay năm tuổi, sợ người lạ lúc 8 tháng tuổi,...

Vì vậy cần quan tâm đến độ tuổi lúc xuất hiện, tần số, cường đọ, tính ổn định của các triệu chứng khác nhau và đánh giá ảnh hưởng của chúng nếu có, đối với sự phát triển trí tuệ và tình cảm của trẻ.

3. Nhiều biểu hiện nhiễu tâm ở trẻ em có tiên lượng tốt, tự mất đi, không phải là nguồn gốc của những biểu hiện nhiễu tâm lúc trưởng thành. Tuy nhiên, một số biểu hiện nhiễu tâm vừa và nặng còn có ảnh hưởng lâu dài sau này lúc trưởng thành.

4. Trong các biểu hiện nhiễu tâm ở trẻ em, cần lưu ý đến các biểu hiện không điển hình, lạ lùng, rất thay đổi, không kèm theo sự sợ hãi. Các biểu hiện như vậy thường có liên quan đến một quá trình loạn tâm nằm phía dưới. Đặc biệt quan tâm đến sự mất giao tiếp với thực tế, thường gặp trong loạn tâm.

 

III. Các loại nhiễu tâm hay gặp ở trẻ em

Bốn loại biểu hiện hay gặp ở trẻ em:

•-                     Chứng lo hãi (lo âu - sợ hãi)

•-                     Chứng ám sợ

•-                     Chứng ám ảnh

•-                     Các biểu hiện Hystérie.

Chứng lo hãi (lo âu - sợ hãi) thường có mặt trong hầu hết các biểu hiện nhiễu tâm.

Là sự lo âu đón chờ về một điều gì có thể đến, nhưng không rõ là cái gì, sợ cái gì mà không chắc có thể đối phó được.

Trên nền tâm lý nặng nề ấy, thường có thể xuất hiện những biểu hiện thân thể, tạo nên một sức cảm xúc, một cơn lo hãi:

Cảm giác co thắt lồng ngực hoặc thanh hầu;

Cảm giác nguy hiểm, thất bại, sắp chết, thỉnh thoảng chóng mặt, nôn, đánh trống ngực;

Các biểu hiện của hệ thần kinh thực vật như xanh xám, mồ hôi, run đầu chi, mạch nhỏ, tim đập nhanh rồi đập chậm. Các cơn lo hãi này có thể kéo dài vài phút đến một giờ, thường ngừng đột ngột, tiếp sau là ngáp ngủ, đôi khi có cơn đái nhiều;

Các cơn lo hãi này đôi khi xẩy ra do một tình huống xúc cảm hoặc một hoàn cảnh đặc biệt gây ra như một sự thức giấc ban đêm sau ác mộng, một sự gò bó ở trường, một động tác của thầy thuốc, của nha sĩ, đột ngột nhìn thấy chó mèo,...

Lo hãi là một tình huống khi kéo dài sẽ gây ra những rối loạn tâm lý, sự cân bằng tâm lý có nguy cơ bị phá hoại, không chịu đựng được.

Thường hay gặp nhất trong tâm bệnh lý, có kết hợp với các triệu chứng khác. Trường hợp là triệu chứng độc nhất thì gọi là chứng nhiễu tâm lo hãi.

 

TIẾN TRIỂN:

Nhìn chung khả quan. Tuy nhiên, đối tượng thường sống như một kẻ lo âu, làm mồi cho những tình huống xung đột khác.

 

CHẨN ĐOÁN PHÂN LIỆT:

Cần phân biệt với các cơn hen, hạ đường huyết, cơn động kinh tâm thần - vận động đều có chứa đựng một gánh nặng lo âu.

Cũng cần phân biệt với chứng kinh hãi ban đêm có liên quan đến rối loạn giấc ngủ.

Trong lúc nghiên cứu về sinh - bệnh lý của trẻ em, người ta thấy bố mẹ của các trẻ này cũng hay thú nhận là bản thân họ cũng mang khí sắc lo âu sợ hãi. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái lo hãi của trẻ em.

 

ĐIỀU TRỊ

Các thuốc an thần và giải lo âu thông dụng như Valium, Sêduxen. Đôi khi còn dùng Nozinan ?(Lévomepromazine)

Cần tiến hành tâm lý trị liệu

 

CHỨNG ÁM SỢ

1. Định nghĩa:

Là sự sợ sệt mang tính chất lo lắng gây ra bởi một đối tượng hoặc một tình huống cụ thể nhất định (một con dao, một phương tiện vận chuyển,...) mà trong bản thân chúng không mang tính chất nguy hiểm đặc biệt nào. Sự sợ sệt lo lắng này chỉ xuất hiện khi có mặt của vật hay tình huống gây ám sợ, dẫn đến những thái độ lẩn tránh thường rất hợp lý của đứa trẻ đang tìm cách giấu giếm sự ám sợ với bản thân cũng nhe đối với những người xung quanh.

Đứa trẻ cũng có thể cầu viện đến một vật gọi là chống ám sợ (đồ vật hoặc con người) giúp cho nó có thể đương đầu với tình huống gây ám sợ mà không lộ ra lo sợ.

Thường kết hợp với trầm cảm.

2. Các biểu hiện ám sợ

Có đủ loại ám sợ: thông thường người ta chia ra làm 3 nhóm lớn:

- Các ám sợ khoảng trống:

Bao gồm cả sợ các khía cạnh có liên quan như:

+ Sự có mặt đám đông, sợ nơi công cộng.

+ Việc rút lui khó đến một nơi an toàn (thường là về nhà)

+ Sợ đi một mình trong các phương tiện giao thông như tàu hoả, ôtô, máy bay,...

- Các ám sợ xã hội:

+ Sợ người khác chăm chú nhìn mình

+ Sợ đám đông

+ Tránh né các hoàn cảnh xã hội: hạn chế ăn uống nơi công cộng, sợ gặp những người khác giới, sợ nói trước công chúng,..

+ Có thể bộc lộ bằng lời phàn nàn, bị đỏ mặt, run tay, buồn nôn, hay mót tiểu tiện.

+ Đặc biệt đối với trẻ em có chứng ám sợ trường học: từ chối đến trường, nôn đau bụng khi đi học,... đãng trí, lo hãi trong lúc học,...

- Các ám sợ đặc hiệu (sợ riêng lẻ) đủ loại ám sợ:

+ Sợ chó, mèo, chuột và các loài vật đủ loại khác nhau.

+ Sợ các vật nhọn sắc.

+ Sợ các món đồ ăn nhất đinh: thịt, cá, mỡ,...

+ Sợ sấm chớp, giông tố

+ Sợ chỗ cao

+ Sợ chỗ kín (đóng kín)

+ Sợ bóng tối

+ Sợ các phương tiện giao thông; máy bay, ôtô, tàu hoả, tàu điện ngầm...

+ Sợ nha khoa, sợ thầy thuốc, y tá,...

+ Sợ nhìn thấy máu, vết thương, sợ khám bệnh...

+ Sợ đi vệ sinh ở các nhà vệ sinh công cộng.

+ Sợ một số bệnh đặc biệt (ung thư, sida, lao,...)

Người ta thống kê có tới ba bốn trăm ám sợ thuộc loại này.

3. Điều trị

- Dùng tâm dược, các thuốc an thần. Đặc biệt dùng Amitriptylien để phục hồi khí sắc.

- Liệu pháp tâm lý có tác dụng tốt

 

CHỨNG ÁM ẢNH

1. Định nghĩa:

Là sự xuất hiện một hoặc nhiều ý nghĩ hoặc cảm giác trong tâm trí, biết là phi lý nhưng không cưỡng lại được, gây cảm giác đau khổ, lo âu, dằn vặt. Cảm giác, ý nghĩ này xuất hiện từ trong nội tâm, khác với ám sợ do một sự vật, một tình huống nhất định từ bên ngoài bây ra.

Để đấu tranh chống lại sự xuất hiện các sản phẩm tâm lý này, người bệnh cảm thấy bắt buộc làm những nghi thức xua đuổi, biết là phi lý nhưng khó lòng mà không làm (chẳng hạn liên tiếp rửa tay để chống lại ám ảnh sợ bẩn).

2. Các biểu hiện ám ảnh

- Những ý tưởng hoặc những nghiền ngẫm ám ảnh chiếm ưu thế.

Chẳng hạn: Mang dạng các ý tưởng, các hình ảnh trong óc (con mắt...) hoặc xung đột hành động. Thí dụ: một phụ nữ bị dày vò bởi sợ cuối cùng không còn khả năng chống lại xung đột giết con.

- Những hành vi nghi thức chiếm ưu thế (nghi thức ám ảnh)

Chẳng hạn: Rửa tay, lau nhà, quét dọn; sắp xếp đồ đạc theo một thứ tự nhất định; đi đứng theo một trình tự nhất định; bên dưới hành vi bộc lộ ấy là sự sợ hãi một nguy cơ nào đó cho bệnh nhân hoặc do bệnh nhân gây ra.

Hành vi nghi thức là một cố gắng vô ích hoặc tượng trưng để ngăn chặn nguy cơ đó.

Những kết hợp giữa ý tưởng ám ảnh và hành vi nghi thức. Trong giai đoạn này cả hai thành phần đều nổi nên

3. Điều trị : giống như đối với chứng ám sợ

 

CÁC BIỂU HIỆN HYSTÉRIE: (Thường gặp ở trẻ em từ 4 tuổi trở lên)

1. Định nghĩa: Là một chứng bệnh có đặc điểm là biểu hiện ra ngoài bằng rất nhiều triệu chứng khác nhau, giống đủ loại bệnh, nhưng không thể nào tìm ra tổn thương thực thể. Nói một cách vắn tắt, Hystérie là những biểu hiện giống đủ loại bệnh nhưng không giống một bệnh nào.

Hysterie có thể xuất hiện thành những cơn bột phát với những vận động thất thường như co giật, cười nói huyên thuyên, khóc lóc ngất xỉu...Những cơn này có đặc tính là:

•-         Không xảy ra một mình

•-         Không mấy ý thức

•-         Thường xảy ra lặp đi lặp lại

•-         Có trường hợp xảy ra Hysterie tập thể trong trẻ em, dân gian gọi là bệnh "điên lây".

2. Các biểu hiện lâm sàng

            a. Các cơn Hysterie có thể co giật đơn thuần. Thường gặp ở trẻ lớn, xuất hiện sau một cảm giác khó chịu báo trước, có người chứng kiến, bất kỳ ở nơi nào (nhưng không gây nguy hiểm), nằm quỵ xuống đất, mềm mại và thận trọng, do đó không có chấn thương và thương tích, hiếm khi xảy ra mất ý thức hoàn toàn. Sau đấy là những tiếng kêu la và những vận động không mang tính chất động kinh, không đái ra quần, không cắn lưỡi, mắt nhắm nhưng tích cực chống lại khi ta vạch mắt.

Sau vài phút trẻ tỉnh lại, than vãn điều gì đó hoặc đôi khi khóc nhưng không bao giờ mù mờ ý thức.

Cơn giả ngất:

- Cơn ngất xỉu xuất hiện trước các nưgưòi chứng kiến; sau giai đoạn tiền triệu chứng khó chịu, có các dấu hiệu tim mạch giống như trong các cơn ngất thực sự.

- Xanh xám, mồ hôi lạnh, xây xẩm

- Mạch huyết áp bình thường

- Sự thức dậy từ từ

Nếu không chứng kiến, khó phân biệt với cơn ngất thực sự do sự suy yếu của hệ thần kinh thực vật.

Cần chẩn đoán phân biệt với các cơn ngất thực sự thường, các cơn động kinh thực vật, các cơn khóc nấc, các cơn giận dữ ở trẻ trái tính mang tính chất phản ứng ngay.

 

b. Các chứng Hysterie chuyển hoán khác:

Ở trẻ em có tất cả biểu hiện thực thể có thể nhận thấy trong lĩnh vực của hệ thần kinh giao tiếp và có tên là Hysterie chuyển hoán.

 

Rối loạn vận động

- Liệt mềm tay co cứng: liệt một chi, hai chi, nửa người.

- Rối loạn tư thế như rối loạn trương lực tư thế, thân gập ra đằng trướ hoặc ra đằng sau, vẹo cổ, co gấp ngón tay thành hình vuốt (hội chứng Wolkmann)

- Những vận động bất thường như run, các vận động múa giật đều có thể xẩy ra nhưng có diện mạo hài hước.

- Những rối loạn thăng bằng và dáng đi, thường xảy ra và ít khi thành hệ thống hoặc dưới dạng đi khập khiễng, chuyếnh choáng...

Điều cần lưu ý là không có các phản xạ bệnh lý về thần kinh và những lệch lạc rõ nét về triệu chứng.

Các rối loạn cảm giác và giác quan:

- Chứng tê hoàn toàn ít khi gặp ở trẻ em, chứng đau tăng cảm giác, dị ứng cũng vậy.

- Về thính giác: giảm nghe, điếc một bên hoặc hai bên nhưng đo thính lực không có dấu hiệu khách quan nào.

- Về thị giác rất đa dạng: như quáng mắt, nhìn nhỏ hoá to hoặc ngược lại, thu hẹp thị trường ngoại vi

Trong các trường hợp trên, phản xạ đồng tử, vận động nhãn cầu và đáy mắt bình thường.

- Chứng câm là rối loạn chức năng nặng nhất trong Hysterie trẻ em, mang tính chất hoàn toàn hoặc chọn lọc do xúc cảm và chỉ nhất thời hoặc kéo dài.

- Có thể gặp chứng vụng viết, vụng đọc nhưng khi cho đọc và viết nhiều lần thì mất đi.

Các rối loạn nội tạng: có rất nhiều và khó đánh giá, cần được khám và phân tích kỹ:

- Về hô hấp: khó phát âm, nghẹt thở, cơn giả xuyễn.

- Về tiết niệu: đau bàng quang, đái nhiều lần (thường là ở trẻ trai), đôi khi bí đái.

- Về tiêu hoá: khó nuốt (gần với chứng hòn cổ điển trong Hysterie), buồn nôn, nôn, nấc, một vài chứng đau bụng lầm dẫn đến phẫu thuật ruột thừa, rối loạn bài tiết phân.

3. Các tiêu chuẩn chẩn đoán về các biểu hiện Hysterie:

- Sự hiện diện một yếu tố tâm lý (cảm xúc) làm khởi phát.

- Diện mạo ly kỳ của các rối loạn.

- Tính chất không điển hình và lệch lạc của chúng trên bình diện triệu chứng học.

- Người bệnh không lo lắng về các triệu chứng của họ.

- Tính chất dễ thay đổi của các rối loạn và tính chất chữa khỏi bằng cách ly và ám thị.

- Cuối cùng là những bộc lộ phụ rút ra một cách ít nhiều vô thức khai thác từ rối loạn.

4. Nhân cách của trẻ Hysterie:

Nhân cách của trẻ Hysterie bao gồm một số điểm sau đây:

- Tăng cảm xúc

- Dễ bị ám thị

- Tính đóng kịch, phóng đại các tư thế, các cảm xúc.

- Sự hứng khởi tưởng tượng

- Sự phụ thuộc về tình cảm

- Khuynh hướng bịa chuyện, bày đặt hoang tưởng.

Tuy nhiên cần hết sức thận trọng, phân tích tỉ mỉ để khỏi nhầm với nhân cách thông thường của từng lứa tuổi.

Điều cân nhắc lại là trẻ em, nhân cách đang hình thành, đang ở xu thế phát triển, không giống như người lớn.

5. Điều trị

- Liệu pháp hoá được không tỏ ra có hiệu nghiệm.

- Cách ly để cắt đứt các ảnh hưởng gia đình và các bộc lộ phụ

- Giới hạn những khám xét đến mức tối thiếu để tránh cho trẻ tin chắc là bị một căn bệnh thực sự hoặc thực thể.

- Tiến hành liệu pháp tâm lý cá nhân

- Làm cho bố mẹ hiểu bản chất, nguyên nhân của bệnh để cùng phối hợp điều trị cũng như dự phòng.

 

 

 
  Lên đầu trang
Các bài khác...
  • Tìm hiểu lâm sàng và các yếu tố tâm lý trong chứng máy giật cơ (Tic) ở trẻ em
  • Các biểu hiện nhiễu tâm ở trẻ em hiện nay
  • Các biểu hiện nhiễu tâm ở trẻ em hiện nay (tiếp theo)
  • Các biểu hiện nhiễu tâm ở trẻ em hiện nay (tiếp theo)
  • Các biểu hiện nhiễu tâm ở trẻ em hiện nay (tiếp theo)
  • Các biểu hiện nhiễu tâm ở trẻ em hiện nay (tiếp theo)
  • Các biểu hiện nhiễu tâm ở trẻ em hiện nay (tiếp theo và hết)
  • Trẻ em cũng bị trầm cảm
  • các rối nhiễu tâm lý
  • TRẦM NHƯỢC Ở TRẺ EM
  • RỐI NHIỄU TÂM LÝ SAU 2 NĂM VẮNG MẸ