Trong
Lời tựa rất ngắn viết năm 1847 cho lần xuất bản thứ nhất của cuốn Triết
lý Hy Lạp thời bi kịch (La philosophie à l’époque tragique des Grecs),
Nietzsche xác định nhiệm vụ của mình trong cuốn sách này là tìm gặp lại
những nhân cách vĩ đại của các triết gia Hy Lạp cổ đại, là tìm lại những
« âm vang đa diệu của tâm hồn Hy Lạp». Ông nói : «Nhiệm vụ của tôi là
đưa ra ánh sáng điều mà chúng ta phải luôn luôn yêu mến và tôn sùng :
bậc vĩ nhân » (6)1. Như vậy ở đây triết học được nhìn như là
biểu hiện và kết quả của nhân cách và tâm hồn. Triết học không thể tách
rời khỏi nhân cách và tâm hồn.
Trong
Lời tựa cho lần xuất bản thứ hai, cuối năm 1879, cũng rất ngắn, khoảng
độ nửa trang, Nietzche nhấn mạnh lại ý này khi nói rằng, để đảm bảo tính
ngắn gọn của cuốn sách, trong số các công trình phong phú của các triết
gia Hy Lạp cổ đại ông chỉ có thể chọn ra rất ít học thuyết để phân
tích, và đó là « những học thuyết trong đó biểu lộ mạnh mẽ nhân cách của
mỗi triết gia » (7)
Để thực hiện nhiệm vụ đó, Nietzsche bắt đầu bằng việc giải thích tại sao
dân tộc Hy Lạp thời cổ đại có thể đẻ ra các triết gia vĩ đại, những
người đã hình thành toàn bộ cơ sở của nền triết học thế giới. Vì đấy là
thời kỳ mà Hy Lạp đạt tới sự « cường kiện và phong phú nhất ». Một dân
tộc cường tráng mới có thể đẻ ra những nhân cách lớn, những tư tưởng
lớn. Nietzsche, với các nghiên cứu của mình, đi đến kết luận rằng dân
tộc lành mạnh cần đến triết học, dân tộc bệnh hoạn [Trần Xuân Kiêm đã
chọn từ này để dịch] thấy triết học có hại cho họ. 2 Theo
Nietzsche, đối với một dân tộc bệnh hoạn, triết học chỉ khiến cho tình
trạng càng trầm trọng thêm mà thôi. Chỉ có một quốc gia cường tráng mạnh
khỏe mới có thể đảm bảo cho triết học những quyền lợi thực sự của nó.
Triết học sở dĩ phát triển ở Hy Lạp thời cổ đại là vì dân tộc Hy Lạp lúc
đó là một dân tộc lành mạnh, « thực sự lành mạnh ». « …Những người Hy
Lạp đã biết khởi đầu đúng lúc […] phải khởi đầu trong hạnh phúc, trong
sự trưởng thành hùng mạnh hoàn toàn, trong ngọn lửa của sự khoái hoạt
nồng cháy, tức sự khoái hoạt của tuổi thanh niên kiêu dũng và chiến
thắng » (15) Chính người Hy Lạp đã xác định bản chất và nhiệm vụ của
triết học. Nietzsche bác bỏ cái quan niệm cho rằng người Hy Lạp không đẻ
ra triết học mà chỉ kế thừa từ các dân tộc khác, rằng người Hy Lạp đã
nhập khẩu triết học từ ngoại quốc. Hẳn nhiên, người Hy Lạp đã tiếp thu
tinh hoa của các dân tộc Đông phương, của Ai Cập, đã thu nạp các nền văn
hóa ấy và Nietzsche đã dùng một hình ảnh giàu tính văn học để ví von về
sức mạnh của người Hy Lạp : « nếu dân tộc Hy Lạp đã đi xa được đến như
thế, chính là vì họ đã biết nhặt lấy ngọn thương mà vài dân tộc khác đã
để nằm yên bất động, để phóng đi xa hơn. » (17) Và chính ở điểm này mà
Nietzsche đã phát triển ý tưởng về tầm quan trọng của sự tiếp thu học
hỏi và phát triển tri thức mà các dân tộc khác cung cấp. « Dân tộc Hy
Lạp thật tuyệt vời trong nghệ thuật học hỏi với kết quả, và cũng như họ,
chúng ta sẽ phải học hỏi những dân tộc láng giềng của chúng ta, và đem
kiến thức thâu đạt được phụng hiến cho đời sống chứ không phải phục vụ
cho tri thức bác học, như một đà nhảy từ đó ta phóng mình nhảy lên cao
vời và cao hơn dân tộc láng giềng » (17) Tại sao Nietzsche có thể dám
chắc về vị trí không thể phủ nhận của dân tộc Hy Lạp trong lịch sử triết
học ? Điều mà người Hy Lạp đã làm, đó là « bổ khuyết, gia tăng, nâng
cao và thanh lọc cái tri thức vay mượn của họ », để sáng hóa. Họ đã sáng
tạo nên những điều căn bản, gốc gác nhất mà hậu thế chỉ có thể kế thừa
phát triển chứ khó có thể thêm thắt những gì mang tính thiết yếu.
Nietzsche thấy rằng tất cả các triết gia cổ Hy Lạp đều là những người
phụng hiến trọn đời mình cho tri thức. Và dù mỗi người đều là một khối
cô đơn thì họ luôn gắn liền nhau trong tư tưởng. Họ là những người tự
đặt lên vai mình những trách nhiệm trọng đại đối với tri thức. Là những
người khổng lồ, họ hợp thành một « Cộng hòa các Thiên tài », họ tạo
thành một thế giới riêng, họ đuổi theo những mối quan tâm riêng và tạo
lập một « tương thoại tâm linh ». Nietzsche, lắng nghe cuộc tương thoại
cao vời của họ, để từ đó đúc kết lại những điều mà ông cho rằng ông và
thời đại ông có thể thấu hiểu được.
Trong lập luận của Nietzsche về mối quan hệ giữa triết học và tình trạng
sức khỏe của dân tộc, có một điểm mà ông chưa bàn tới : liệu một dân
tộc bệnh hoạn có thể trở thành một dân tộc lành mạnh được không ? Khi
một dân tộc ốm yếu bệnh tật bắt đầu quan tâm đến triết học, bắt đầu thấy
cần đến triết học (cho dù nó chưa đủ khả năng để làm ra triết học) thì
đó có phải là dấu hiệu cho thấy sức khỏe của nó bắt đầu hồi phục, một
dấu hiệu dự báo rằng nó có thể trở thành một dân tộc lành mạnh, cường
tráng trong tương lai ?
-------------------- Các trích dẫn lấy từ cuốn Triết lý Hy Lạp thời bi kịch cổ đại, Trần Xuân Kiêm dịch, NXB Tân An, Sài Gòn, 1975, có số trang để trong ngoặc đơn. Xem Triết lý Hy Lạp thời cổ đại, tr.13-14
Trích tiasang.com.vn