Tháng 7.1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên Đại La
thành Thăng Long. Khi thuyền vừa cập bến, nhà vua thấy rồng vàng hiện
lên thuyền ngự, do đó đã đặt tên là kinh đô Thăng Long (nghĩa là Rồng
bay), tức Hà Nội ngày nay. Sau đó, ông cho xây dựng kinh thành to lớn
đàng hoàng, nhân dân các nơi đổ về làm ăn sinh sống
Theo tài liệu mộc bản triều Nguyễn thì năm Bính Tuất (866), đời
Đường, niên hiệu Hàm Thông thứ 7, thành Đại La có chu vi một ngàn chín
trăm tám mươi hai trượng lẻ năm thước, thân thành cao hai trượng sáu
thước, chân thành rộng hai trượng năm thước, bốn mặt nữ tường (là tường nhỏ xây trên thành)
cao năm thước năm tấc, năm mươi lăm lầu vọng địch, sáu cửa úng môn (là
cửa có xây thành bảo vệ), ba hào nước, ba mươi bốn đường đi, lại xây đê
quanh thành dài hai ngàn một trăm mười lăm trượng tám thước, cao một
trượng năm thước, chân rộng hai trượng, xây hơn bốn mươi vạn căn nhà
(1). Qua đó cho thấy thành Đại La vốn có quy mô rộng và là chốn đô hội,
dân cư đông đúc.
Buổi đầu dời đô, vua Lý Thái Tổ cho xây dựng các cung điện trong
thành Thăng Long, trong đó có cung Thúy Hoa là cung xây cho các cung nữ
ở. Theo mộc bản triều Nguyễn, ký hiệu H31/8, sách Đại Việt sử ký toàn thư,
quyển 2, mặt khắc 4 cho biết: “Mùa đông, tháng 12, năm Canh Tuất, Thuận
Thiên năm thứ nhất (1010), Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 3, cung
Thúy Hoa làm xong, tổ chức lễ khánh thành, đại xá các thuế khóa cho
thiên hạ trong 3 năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thuế
lâu năm đều tha cho cả”. Trong quyển 2, mặt khắc 5, sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại: Năm ấy (năm Tân Hợi, Thuận Thiên năm thứ 2 - 1011),
ở trong thành, bên tả dựng cung Đại Thanh, bên hữu dựng chùa Vạn Tuế,
làm kho Trấn Phúc. Ngoài thành, dựng chùa Tứ Đại Thiên Vương và các chùa
Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ. Dựng điện Hàm Quang ở bến sông Lô. Đến mùa
hạ, tháng 4, Nhâm Tý (Thuận Thiên năm thứ 3 - 1012), Lý Thái Tổ cho sửa chữa 2 điện Long An, Long Thụy, là nơi nhà vua nghỉ ngơi.
Lý Thái Tổ là người sùng mộ Phật giáo, nên rất quan tâm đến việc xây dựng chùa chiền và đúc chuông chùa: Mộc bản Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 2, mặt khắc số 7 ghi rõ: Mùa thu, tháng 9 (Giáp Dần, Thuận Thiên năm thứ 5 - 1014), nhà
vua xuống chiếu phát 310 lạng vàng trong kho để đúc chuông treo ở chùa
Hưng Thiên. Tiếp đó, mùa đông, tháng 10, xuống chiếu phát 800 lạng bạc
trong kho để đúc hai quả chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm và tinh lâu Ngũ
Phượng; đắp thành đất ở bốn mặt kinh thành Thăng Long; đổi phủ Ứng
Thiên thành Nam Kinh. Kỷ Mùi, mùa Xuân, tháng giêng, dựng Thái Miếu ở
lăng Thiên Đức. Đến năm Giáp Tý, Thuận Thiên năm thứ 15 (1024), Tống
Thiên Thánh năm thứ 2, nhà vua cho sửa chữa kinh thành Thăng Long. (2)
Sang đời vua Lý Thái Tông (1028 - 1054), nhà vua lấy niên hiệu Thiên
Thành. Bên cạnh việc kiến thiết lại thành Thăng Long, nhà vua quan tâm
đến việc mở mang bờ cõi. Mộc bản ghi lại: Năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Thiên Thành năm thứ 2 (1029),
nhà vua sai Hữu ty mở rộng quy mô, nhắm lại phương hướng mà làm lại,
đổi tên là điện Thiên An. Bên tả dựng điện Tuyên Đức, bên hữu dựng điện
Diên Phúc, thềm trước điện gọi là Long Trì (thềm rồng). Phía đông thềm
rồng gọi là điện Văn Minh, phía tây đặt điện Quảng Vũ, hai bên tả hữu
thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để dân chúng ai có việc kiện tụng oan
uổng thì đánh chuông lên. Bốn xung quanh thềm rồng đều có hành lang để
tụ họp các quan và sáu quân túc vệ. Phía trước làm điện Phụng Thiên;
trên điện dựng lầu Chính Dương, làm nơi trông coi tính toán giờ khắc;
phía sau làm điện Trường Xuân; trên điện dựng gác Long Đồ, làm nơi nghỉ
ngơi du ngoạn. Bên ngoài đắp một lần thành bao quanh gọi là Long Thành.
(3)
Mùa xuân, tháng 2, Canh Ngọ (Thiên Thành năm thứ 3 - 1030), nhà
vua làm điện Thiên Khánh ở trước điện Trường Xuân, để làm chỗ cho vua
nghe chính sự. Điện làm theo kiểu bát giác, trước sau đều bắc cầu Phượng
Hoàng. (4) Một sự kiện khá quan trọng, vào năm Ất Hợi (Thông Thụy năm thứ 2 - 1035),
nhà vua mở chợ Tây Nhai và dãy phố dài ở chợ ấy. Đồng thời cửa Quảng
Phúc của thành Thăng Long mở ra phía chùa Diên Hựu (chùa Một cột) và chợ
Tây Nhai (chợ Ngọc Hà). Thời điểm này, nhà vua xuống chiếu bắc cầu Thái
Hòa ở sông Tô Lịch. Tháng 9 bắc cầu xong, vua ngự đến xem, sai các quan
hầu làm thơ. (5)
Đời vua Lý Thánh Tông (1054-1072), nhà vua tập trung vào việc sửa
sang các cung điện trong đại nội, sửa chữa chùa chiền. Năm Đinh Dậu (Long Thụy Thái Bình năm thứ 4 - 1057),
vua cho xây đắp bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên (tức tháp Báo Thiên) 12
tầng, cao mấy mươi trượng (6). Thêm một sự kiện quan trọng: năm Canh
Tuất, (Thần Vũ năm thứ 2 - 1070), mùa thu, tháng 8, vua cho xây dựng Văn Miếu.
Sang đời vua Lý Nhân Tông, nhà vua cho dựng lại kiến trúc của thành
Thăng Long, sửa lại thành Đại La (7), sửa chùa Diên Hựu (chùa Một Cột)
(8), lập Quốc Tử Giám. Một sự kiện đáng nhớ trong giai đoạn này được ghi
lại: Mùa xuân, tháng 2, đúc chuông lớn ở chùa Diên Hựu. Chuông đúc
xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó là thành khí, nên không tiêu
hủy, bèn đem bỏ ở Quy Điền (ruộng rùa) của chùa. Ruộng ấy thấp ướt, có
nhiều rùa, người bấy giờ gọi là chuông Quy Điền. (9)
Đời vua Lý Anh Tông (1138-1175), nhà vua kiến thiết một loạt các công
trình. Vào năm Bính Tý, Đại Định năm thứ 17 (1156), làm hành cung Ngự
Thiên, điện Thụy Quang, gác Ánh Vân, cửa Thanh Hòa, thềm Nghi Phượng,
gác Điện Phú, đình Thưởng Hoa, thềm Ngọc Hoa, hồ Kim Liên, cầu Minh
Nguyệt và đóng thuyền to bản của ngự trù (bếp nhà vua), thuyền to bản
của nội cung (10).
Đến đời vua Trần Thái Tông, có cuộc cải cách lớn khi: “Định các
phường về hai bên tả hữu của kinh thành, học theo đời trước chia làm 61
phường; đặt ty Bình Bạc (là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô
Thăng Long lúc đó). Lại mở rộng phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành
giao cho quân Tứ Sương thay phiên nhau canh giữ. Trong thành, dựng cung,
điện, lầu, các và các nhà lang vũ ở hai bên phía đông và tây. Bên tả là
cung Thánh Từ (nơi Thượng hoàng ở), bên hữu là cung Quan Triều (nơi vua
ở). Đó là những việc đã làm năm Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 5 (1230).
(11)
Tháng 2 (Quý Mão, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 2 - 1243), đắp thành
nội, gọi là thành Long Phượng và trùng tu Quốc Tử Giám. (12)
Chú thích:
(1): Hồ sơ H59/6, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển
5, mặt khắc 10 -11, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia
IV.
(2): Hồ sơ H31/8, Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), quyển 2, mặt khắc 9, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
(3), (4): Hồ sơ H31/8, ĐVSKTT, quyển 2, mặt khắc 19-20, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
(5): Hồ sơ H31/8, ĐVSKTT, quyển 2, mặt khắc 23, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
(6): Hồ sơ H97/2, Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập, quyển 1, mặt khắc 26-27, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
(7), (8), (9): Hồ sơ H31/9, ĐVSKTT, quyển 3, mặt khắc 10, 13, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
(10): Hồ sơ H31/10, ĐVSKTT, quyển 4, mặt khắc 12-13, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
(11), (12): Hồ sơ H31/11, ĐVSKTT, quyển 5, mặt khắc 6, 14, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
Lâm Viên - Phạm Thị Huệ
Trích Thanhnienonline