 | |
Về văn chương, nhà văn Peru vừa đoạt giải Nobel quan niệm: “Trong
một xã hội cởi mở, dân chủ, nhà văn là người cho bạn đọc sống cuộc sống
thứ hai. [...] Mặc dù ngày nay có sự cạnh tranh của truyền hình,
internet, nhưng tôi không hề bi quan về tương lai của văn học. Bởi vì
cuộc sống thứ hai mà văn học ban cho chúng ta không chỉ giới hạn ở khía
cạnh giải trí. Văn học mang lại cho chúng ta ước mơ, cho phép chúng ta
lánh xa đời thường nhưng cũng đặt ra cho chúng ta một số câu hỏi.”
Đã
hai mươi năm rồi, sau Octavio Paz năm 1990, Châu Mỹ La-tinh chưa có ai
được nhận giải Nobel văn học. Đã hai mươi năm, những người yêu văn học
Mỹ La-tinh nóng lòng chờ đợi tin vui từ Viện Hàn lâm Thụy Điển bởi đó
là quãng thời gian mà họ đang có một thế hệ nhà văn xuất chúng: từ
García Márquez đến Carlos Fuentes, từ Julio Cortázar đến Jose Donoso, từ
Jorge Luis Borges đến Mario Vargas Llosa. Và ngày 7 tháng 10 năm 2010,
một bất ngờ đã xảy ra: Mario Vargas Llosa đã làm cho mọi dự đoán trở
nên vô nghĩa khi trở thành nhà văn thứ 106 trên toàn thế giới đoạt giải
thưởng văn học danh giá nhất hành tinh.
Con người dấn thân
Mario Vargas Llosa sinh ngày 28 tháng 3 năm
1936 ở Arequipa (miền Nam Peru). Có thể nói, ông là một trong số không
nhiều nhà văn có học vấn cao: tốt nghiệp học viện quân sự, học đại học
văn khoa rồi học lên tiến sĩ và bảo vệ thành công luận án về nhà thơ
Rubén Darío. Ông cũng là một người đa tài: vừa dạy học, nghiên cứu khoa
học, vừa viết kịch, làm công tác phê bình, vừa làm cộng tác viên cho các
tạp chí văn học khác nhau, nhất là tạp chí Literatura, và làm phóng viên cho hãng thông tấn AFP, cơ quan báo chí hàng đầu thế giới.
Vargas Llosa là một nhà văn dấn thân. Việc
ông lựa chọn Học viện Quân sự Lima cho thấy ông đã xác định một con
đường lập nghiệp, lập thân rõ ràng. Tham vọng chính trị của ông không
phải là không có cơ sở. Đất nước Peru giai đoạn từ 1945 đến năm 1980 bị
giằng xé giữa các chế độ độc tài và khát vọng dân chủ. Các hành động
khủng bố, đàn áp, đảo chính v.v... liên tiếp xảy xa, các chế độ độc tài
lần lượt thay nhau nắm quyền. Trong bối cảnh chính trị-xã hội phức tạp
đó, Vargas Llosa bắt đầu dấn thân vào chính trường. Ông đã nghĩ tới cách
mạng Cuba và tỏ ra cảm tình với đường lối chính trị của Fidel Castro.
Vargas Llosa từng làm trưởng ban điều tra vụ
thảm sát bốn mươi thường dân và bốn nhà báo tại làng Uchuraqay, lãnh
đạo phong trào phản đối việc quốc hữu hóa lĩnh vực ngân hàng trong nhiệm
kỳ đầu của Tổng thống Alan García, đứng ra tố cáo sự thiếu dân chủ
trong những năm đầu nhiệm kỳ tổng thống Alberto Fujimori v.v... Ông đã
thành lập phong trào dân chủ cánh hữu mang tên Libertad, và
tranh cử tổng thống Peru năm 1990, nhưng thất bại trước Alberto
Fujimori. Lập trường chính trị sau này của Vargas Llosa được cho là theo
chủ nghĩa tự do, “tự do thái quá” như Giáo sư Serger Audier (Trường Đại
học Paris IV) nhận xét. Sau khi thất bại trên chính trường trước một
đối thủ vô danh, ông sang Anh, rồi Tây Ban Nha.
Sứ mệnh nhà văn
Mario Vargas Llosa ngưỡng mộ Victor Hugo từ hồi còn nhỏ và một trong những tiểu thuyết ông thích nhất là Những người khốn khổ.
Trong một bài phỏng vấn, ông cho rằng Victor Hugo không chỉ tạo cho
người đọc những cảm xúc mạnh mẽ mà còn cố gắng giải đáp những vấn đề
chính trị, văn hóa, tôn giáo. Bên cạnh Gustave Flaubert, Victor Hugo có
tầm ảnh hưởng rất lớn đến văn nghiệp sau này của Vargas Llosa.
Về văn chương, ông quan niệm: “Trong một
xã hội cởi mở, dân chủ, nhà văn là người cho bạn đọc sống cuộc sống thứ
hai. [...] Mặc dù ngày nay có sự cạnh tranh của truyền hình, internet,
nhưng tôi không hề bi quan về tương lai của văn học. Bởi vì cuộc sống
thứ hai mà văn học ban cho chúng ta không chỉ giới hạn ở khía cạnh giải
trí. Văn học mang lại cho chúng ta ước mơ, cho phép chúng ta lánh xa đời
thường nhưng cũng đặt ra cho chúng ta một số câu hỏi.” Đối với
ông, nhà văn không nên bê nguyên hiện thực một cách sống sượng vào các
tác phẩm của mình. Tại buổi ra mắt đầu tiên tại Viện Cervantes, New York
ngay sau khi được tin mình đoạt giải Nobel, ông nói: “Khi tôi viết,
tư tưởng chỉ là thứ yếu. Văn học mang lại cho người đọc một chân trời
rộng mở hơn nhiều so với kinh nghiệm con người.”
Không theo chủ nghĩa hiện thực, thậm chí
trong nhiều tác phẩm chủ nghĩa không tưởng được bộc lộ khá đậm nét,
nhưng không phải vì thế mà Vargas Llosa không cho người đọc thấy, trong
các tác phẩm của mình, tinh thần chiến đấu vì một cuộc sống tốt đẹp hơn
và ý đồ phản ánh những vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo
v.v... Qua những tiểu thuyết như Cuộc chiến ngày tận thế, Lituma trong dãy Andes hay Lễ hội dê cụ
v.v... tác giả cho thấy cái nhìn sắc bén của mình về lịch sử và thời
cuộc. Ông không ngại viết nên những trang văn đẫm máu và nước mắt, bạo
lực và khổ đau để khắc họa một cách rõ nét nhất bức tranh của quê hương,
đất nước và thân phận con người.
Trong Cuộc chiến ngày tận thế (nguyên tác: La guerra del fin del mundo),
thông qua cuộc chiến tranh Canudos, ở Bắc Brazil vào thế kỷ 19, Vargas
Llosa khắc họa khát vọng của con người trong một thế giới mà ảo tưởng
còn có chỗ đứng của nó. Trong những miền đất xa lạ, cuộc sống khốn khổ
của người dân được bù đắp bởi niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn.
Các nhân vật trong tiểu thuyết bộc lộ là những kẻ cuồng tín, phủ nhận
sạch trơn chủ nghĩa duy lý để rồi chìm đắm trong những ảo tưởng vừa cổ
hủ vừa lệch lạc.
Lituma trong dãy Andes (nguyên tác: Lituma en los Andes)
kể lại câu chuyện của trung sĩ Lituma, người sinh ra và lớn lên ở vùng
ven biển. Trung sĩ Lituma có nhiệm vụ điều tra về một vụ án bí ẩn. Anh
phải đối diện với những án mạng kinh khủng nhất, chẳng hạn như vụ thảm
sát một đôi vợ chồng giáo viên tiếng Pháp khi họ đi xe khách về
Cuzco.Với những tình tiết gây cấn, với những đoạn văn đẫm máu nhưng đôi
khi pha chút hài hước, tiểu thuyết này dựng lên bức tranh về đất nước
Peru nghèo khó, khổ đau, đẫm máu.
Con người trong các tác phẩm của Vargas
Llosa thường là con người nổi loạn, nổi loạn bằng ước mơ, hoài bão, nổi
loạn bằng những hành động chống lại những quy tắc tôn giáo, xã hội,
chính trị, v.v..., nổi loạn để tồn tại. Trong Cuộc chiến ngày tận thế,
một nhà tiên tri tập hợp những kẻ ăn mày, những tên đầu trộm đuôi cướp
và những ả gái điếm để lập ra một “tập đoàn lao động” bí mật. Những nhân
vật xấu xí này chống lại các luật lệ, và đồng loạt từ chối các hình
thức thuế má, thống kê dân số, phủ nhận sạch trơn việc lưu thông tiền tệ
và kinh tế thị trường...
Chủ nghĩa tự do này còn được thể hiện trong tiểu thuyết La tía Julia y el escribidor (đã được dịch ra tiếng Việt với tiêu đề Dì Hulia và nhà văn quèn),
một câu chuyện tình đầy chất hu-mua xảy ra trong thành phố Lima của
những năm 1950. Tình yêu bị cấm đoán giữa chàng phóng viên trẻ tuổi và
bà cô của chính mình trong một xã hội hà khắc thể hiện niềm khát khao
được tự do sống, được tự do yêu, được tự do phản kháng.
Tương tự, trong Thành phố và những con chó (nguyên tác: La Ciudad y los perros),
tác giả để cho bốn sinh viên học viện quân sự Leoncio Prado gieo rắc sự
kinh hoàng ở trong trường học với đủ loại thói hư tật xấu: hút thuốc,
uống rượu, chơi điếm, giết người… Qua sự nổi loạn của bộ tứ siêu quậy
đó, tác giả tố cáo những luật lệ hà khắc trong các trường học và những
kẻ độc tài quân sự ở Peru.
Nổi trội trong các tác phẩm của Mario Vargas
Llosa là sự đối lập giữa thân phận con người và quyền lực, giữa khát
vọng sống và bạo lực, giữa tự do và đàn áp, giữa tình yêu và thù hận.
Viện Hàn Lâm Thụy điển đã quyết định trao giải Nobel cho ông vì “đã mổ xẻ các cấu trúc quyền lực và miêu tả một cách sắc sảo tinh thần chiến đấu, nổi loạn và sự thất bại của con người cá nhân”.
Một lần nữa, văn học Châu Mỹ La-tinh lại được vinh danh. Cho dù quan
điểm chính trị của nhà văn này chưa được nhất quán và có phần cực đoan,
văn nghiệp của ông hoàn toàn xứng đáng được tôn vinh bằng giải thưởng
văn học danh giá nhất thế giới, giải thưởng mà chỉ có những người dùng
văn diễn triết như Jean-Paul Sartre mới nỡ lòng từ chối!
Trích tiasang.com.vn
|