Cùng với thời gian, vai trò của nhà Nguyễn trong tiến trình lịch sử Việt
Nam cũng ngày càng được làm rõ dưới ánh sáng của một tư duy nghiên cứu
khoa học khách quan, không thiên kiến, đặc biệt là những đánh giá về
người sáng lập vương triều này.
Tham dự hội thảo quốc tế “Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội
văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”, PGS-TS Choi Byung Wook (Đại học Inha,
Hàn Quốc) đã thực hiện một khảo cứu về cuộc công du đầu tiên của vua
Gia Long tới thành Thăng Long, ngay sau khi ông giành được quyền lực
trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ nhà Tây Sơn. Báo Thanh Niên xin
giới thiệu cùng bạn đọc lược trích bản tham luận rất đáng chú ý này như
một nỗ lực tìm hiểu lịch sử Việt Nam của một học giả nước ngoài với
nhãn quan độc lập.
Trong lịch sử Việt Nam, sự thống nhất Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau
được tiến hành trong 2 lần. Lần thứ nhất diễn ra vào thế kỷ XIX dưới
thời vua Gia Long - người là hiện thân sự thống nhất miền Nam (Gia Định)
và miền Bắc (Thăng Long). Gia Long đã từng hiện diện ở 3 trung tâm
chính trị là Sài Gòn, Huế và Thăng Long để cai trị đất nước. Ông ở Sài
Gòn năm 1788 để chuẩn bị lên ngôi hoàng đế vào năm sau đó, đến Huế vào
tháng 5 năm 1801 và tiếp tục về Thăng Long trước khi ông chọn Huế là nơi
trị vì lâu dài.
Gia Long vào thành Thăng Long vào ngày 21 tháng 6 năm 1802 (âm lịch)
và ông rời Thăng Long vào ngày 27 tháng 9 năm đó. Trong suốt 3 tháng
giam mình trong điện Kính Thiên, Gia Long ban hành một loạt chính sách
mới.
Sự hiện diện của Gia Long ở Thăng Long có ý nghĩa đáng kể mặc dù thời
gian chỉ là 3 tháng. Trong suốt thời gian ông ở đây, ông đã minh chứng
cho các luật quan trọng như việc cải tổ bộ máy hành chính nhà nước,
thiết lập mối quan hệ ngoại giao, hệ thống thuế, quản lý giáo dục, cách
thức đương đầu với quân thù… Với thời gian 3 tháng Gia Long ở Thăng
Long, thành phố này trở thành thành phố lần đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam là trung tâm tập trung quyền lực của toàn bộ quốc gia bao gồm các
khu vực quanh sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
Trong số những chính sách mới được ban hành trong 3 tháng đó, tôi
muốn tập trung nói về 2 vấn đề. Một là chính sách hòa giải đối với những
quan lại thời Trịnh và Lê. Hai là việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao
với ngoại quốc.
Tại sao và như thế nào mà hai chính sách này liên kết với nhau để ta
có thể hiểu thêm về Thăng Long vào đầu thế kỷ XIX? Theo quan điểm của
tôi, hai chính sách này là hai điểm chính mà Gia Long xét đến để bảo vệ
dân tộc mình khỏi những nguy cơ tiềm ẩn từ cả bên trong và bên ngoài.
Bằng việc xem xét 2 chính sách này, chúng ta sẽ hiểu hơn tầm quan trọng
của sự hiện diện của Gia Long đối với việc thống nhất dân tộc vào nửa
đầu thế kỷ XIX.
Hòa giải
Như đã biết, Nguyễn Phúc Ánh (1762-1820, sau này hiệu Gia Long) là
một chiến binh dày dạn kinh nghiệm (một xạ thủ cừ khôi) người đã lăn lộn
trên rất nhiều chiến trường từ thuở thiếu thời. Khi quân đội của mình
tiến ra phía bắc để giành lại thành Thăng Long từ tay quân Tây Sơn, ông
đã ngay lập tức theo sau đoàn bộ binh lãnh đạo bởi Tả tướng quân Lê Văn
Duyệt, cùng lúc đó là lực lượng hải quân do tướng Nguyễn Văn Trương chỉ
huy. Theo Đại Nam thực lục (ĐNTL), Lê Văn Duyệt chiếm được
thành Thăng Long vào ngày 17 tháng 6 năm 1802. Chỉ 4 ngày sau đó, Nguyễn
Phúc Ánh đã làm chủ điện Kính Thiên, nơi ở của các hoàng đế triều Lê.
Chính sách hòa giải của ông tập trung vào những thành viên trong bộ
máy chính quyền cai trị trước đây dưới thời Lê/Trịnh, và vào người nhà
Tây Sơn. Các quan lại dưới triều Lê trước đây có thể được tha nếu họ
không nhận lời mời làm quan của quân Tây Sơn mặc dù trong thực tế những
người này chính là người của nhà Trịnh, những kẻ đã tranh chấp với nhà
Nguyễn và đã đưa quân vào chiếm kinh đô của nhà Nguyễn (1775). Ông ta
không có đủ lòng thương để tha cho những tướng lĩnh hàng đầu trong bộ
máy chính quyền Tây Sơn bởi đây là những người luôn muốn tiêu diệt cả
gia đình ông cho đến người cuối cùng. Tuy nhiên, đối với những binh lính
còn lại, ông muốn đưa họ gia nhập đội quân của mình: “Còn người nào bị
ép phải theo thì đều tha, nên cứ ở yên như cũ. Những kẻ có nhận quan
chức của giặc ra thú thì được miễn tội, gần thì hạn 3 ngày, xa thì hạn 5
ngày.” (ĐNTL). Trước sắc lệnh này, nhiều tướng sĩ của triều Lê/Trịnh
trước đây và Tây Sơn đã quyết định phụng sự vương triều mới.
Những nhà trí thức nho giáo, những người được cho là trung quân,
nhưng lại góp sức cho quân Tây Sơn cũng không tránh khỏi sự trừng phạt,
mặc dù một vài người có chức quan thuộc hàng cao nhất trong triều Tây
Sơn như Ngô Thì Nhậm (1746-1803), Nguyễn Gia Phan (1749-1829), và Phan
Huy Ích (1750-1822) đã được miễn tội chết để có thể phụng sự vương triều
mới trong công tác ngoại giao với Trung Quốc bởi họ là những người có
đầy đủ kinh nghiệm trong vấn đề này. Mặc dù đây chỉ là tạm thời và sau
này họ vẫn phải chịu hình phạt, nhưng những chứng cứ đã cho chúng ta
thấy rằng Gia Long đã tìm cách duy trì chính sách hòa giải của mình càng
lâu càng tốt.
Gia Long đã tổ chức một buổi nghi lễ cho người dân và dành cho các vị
thần có liên quan tới Thăng Long. Trong sách ĐNTL, Gia Long đã ra ngoài
điện Kính Thiên lần đầu tiên để tới thăm lăng Lê Thái Tổ (tháng 7) và
một tháng sau đó, ông chịu trách nhiệm tổ chức thu lễ ở Văn Miếu được xây dựng vào triều Lý và được duy trì suốt thời Lê.
Nhằm kết nối người dân ngoài bắc, Gia Long tìm đến hậu duệ của họ Lê
là Lê Duy Hoán và phong là Diên Tự công, ban cho 1.016 người hầu cận và
10.000 mẫu đất. Chính sách nổi trội hơn nữa của Gia Long là trong việc
nhẹ nhàng đối với họ Trịnh. Theo nguyên tắc đối xử nồng hậu, Gia Long
nhấn mạnh với người truyền ngôn của nhà Trịnh: “Tiên đế ta với họ Trịnh
vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách,
đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay trong
ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn
sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử...” (ĐNTL). Gia Long
đã cung cấp cho Trịnh Tư, người có trách nhiệm với việc cúng tế tổ tiên
nhà Trịnh 500 mẫu ruộng để ông ta tiếp tục nhiệm vụ đang đảm nhiệm. Cùng
thời điểm đó, 247 thành viên họ Trịnh được miễn thuế binh dịch và thuế thân.
Việc hòa giải dàn xếp của vua Gia Long dành cho cả hậu duệ của những người có công được coi là khai quốc công thần và trung hưng công thần của triều Lê. 33 khai quốc công thần và 15 trung hưng công thần được
đặt tên khiến cho con cháu họ được tôn vinh bởi những tước hiệu khác
nhau. Đối với những người ở phía bắc không theo nhà Tây Sơn, hoặc là
chiến đấu chống lại hoặc là bất hợp tác, thì đều được liệt vào danh sách
những người trung quân...
Một điều nữa cần chú ý là chính sách hòa giải của Gia Long đối với
các dân tộc thiểu số. Gia Long là hiện thân của một xã hội đa dân tộc,
vì thế sức mạnh của ông dựa vào sự đoàn kết đa tộc người. Vào thời điểm
đó, các tỉnh Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên có rất nhiều tộc người
cư trú. Để liên kết sức mạnh của tất cả các tộc người này thành một quốc
gia hùng mạnh mới, Gia Long mời họ về Thăng Long. Thực hiện lời hứa,
triều đình đã ban quan chức cho họ.
Người dịch: Ths Phạm Quốc Thành, trường ĐH KHXH-NV, ĐH Quốc gia HN
PGS-TS Choi Byung Wook
(Đại học Inha, Hàn Quốc)
Trích Thanhnien online