Trong vòng 2.300 năm nay, biển đã dâng
thêm 6 mét. Nếu tính từ thời điểm Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long đến
nay biển dâng thêm gần 3 mét. Do cha ông ta đã thích ứng với tình trạng
này và vì thế Hoàng thành cũ đã bị vùi xuống đất với một độ sâu tương
ứng...
Từ những khai quật khảo cổ học về Hoàng thành Thăng Long trong mấy
chục năm qua, nhất là cuộc khai quật điển hình là tại 18 Hoàng Diệu, các
nhà khảo cổ học và văn hóa xác định:
Ở độ sâu khoảng 1 mét trở lên: chủ yếu là các di tích có từ
thế kỷ 19 - 20, gồm các hiện vật thời nhà Nguyễn cùng với một số hiện
vật thời Pháp thuộc xen trộn lẫn nhau.
Ở độ sâu từ 1 đến 2 mét: là tầng văn hóa thời Lê - Mạc nằm
trong thời gian khoảng 4 thế kỷ (từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18), có pha
trộn một ít di chỉ thời Lý Trần và thời Nguyễn, tuy nhiên đó là hiện
tượng thường thấy trong khảo cổ học.
Ở độ sâu từ 2 đến 3 mét: là tầng văn hóa Lý - Trần, kéo dài
cũng 4 thế kỷ (từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14), đây là đặc trưng của Văn
hóa Thăng Long, giữa văn hóa thời Lý và văn hóa thời Trần được kết nối
tương đồng chặt chẽ.
Ở độ sâu từ 3 đến 4 mét: là tầng văn hóa tạm gọi là Văn hóa
Đại La, có những di chỉ thuộc văn hóa thời Đường bên Trung Quốc, tương
ứng với thời kỳ nước ta bị nhà Đường đô hộ.
Như vậy là, cách mặt đất hiện nay trên dưới 4 mét trở lên, chúng ta
đã phát hiện được 4 tầng văn hóa. Tuy có đan xen nối tiếp, nhưng những
công trình của thời kỳ sau xây chồng lên những công trình của thời kỳ
trước, xưa nhất là thời kỳ Đại La và gần nhất là thời nhà Nguyễn.
Và như vậy cũng có thể nói, cái thành Đại La mà vua Lý Thái Tổ đến
tiếp quản để xây dựng và phát triển nên Thăng Long - Hà Nội bây giờ, nay
đã bị vùi sâu hơn 4 mét. Còn các phế tích của các cung điện do ông xây
dựng thì đã nằm sâu 3 mét dưới mặt đất. Dĩ nhiên đó là cách tính ước lệ
dựa trên những khai quật một phần Hoàng thành tại 18 Hoàng Diệu.
Vì sao có sự chôn vùi đó?
Trước hết hãy nói đến những cái hồ của Hà Nội. Hệ thống hồ của Hà Nội
tạo thành một bản sắc văn hóa rất riêng, vừa thơ mộng dịu mát vừa trầm
mặc sâu lắng, nó là một phần “hồn vía” của thủ đô. Tiến sĩ địa chất học
Hoàng Ngọc Kỷ cho biết, Hà Nội hiện nay có khoảng 110 cái hồ lớn nhỏ.
Nhưng theo ông Kỷ thì trừ hồ Tây ra còn hầu hết đều là hồ nhân tạo, vì
Hà Nội là khu vực ven sông, mà theo địa chất học thì trầm tích khu vực
ven sông không thể tạo ra các hồ tự nhiên, trừ hồ móng ngựa. Hệ thống hồ
nhân tạo này có liên quan đến việc Hoàng thành bị chôn vùi.
Cách đây không lâu Thanh Niên có đăng loạt bài Dựng nước sau cơn đại hồng thủy,
trong đó có giới thiệu những kết quả khảo sát địa chất do tiến sĩ Hoàng
Ngọc Kỷ công bố cho thấy diện mạo đất nước thay đổi cùng với quá trình
biển tiến và biển thoái trong thời kỳ địa chất đệ tứ của Việt Nam. Quá
trình này là cũng tác nhân sâu xa làm biến đổi khu vực Hoàng thành.
Sau khi biển tiến đột biến làm mực nước dâng lên 6 mét so với trước
đó, tức là cao hơn 3,5 mét so với mực nước biển hiện nay và “nằm lì”
trong khoảng thời gian 1.015 ± 80 năm, biển bắt đầu thoái. Sau khi thoái
đột biến rồi xuống dần đến cực tiểu vào thời gian cách đây 2.300 năm
với mực nước - 6 mét so với mặt biển hiện nay, biển bắt đầu tiến, tiến
mãi cho đến ngày nay. Điều này có nghĩa là trong khoảng 2.300 năm qua,
nước biển đã dâng thêm 6 mét. Ngày nay, thế giới đang đối phó với tình
trạng biển dâng, tình trạng này không có gì khác là quá trình biển tiến
bắt đầu từ 2.300 năm trước đang nối tiếp.
|
Những
cái hồ của Hà Nội chính là hệ quả của việc lấy đất đắp đê và lấy đất
tôn nền mà có. Thời gian qua đi, công trình sau được xây chồng lên công
trình trước. Đó là lý do khiến cho Hoàng thành bị chôn vùi, biến thành 4
tầng văn hóa xếp chồng lên nhau như đã thấy. |
|
Với tốc độ như vậy có thể ước tính được là vào thời điểm Lý Công Uẩn
dời đô về Thăng Long, mực nước biển thấp hơn bây giờ khoảng gần 3 mét,
tức là đã dâng thêm hơn 3 mét so với giai đoạn cực tiểu. Đồng bằng Bắc
Bộ cũng rộng hơn đáng kể so với hiện nay.
Vì vậy, nhận xét của Lý Công Uẩn về thành Đại La: “Vùng này mặt đất
rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng
tối tăm” là hoàn toàn chính xác. Do mực nước biển thấp nên đáy sông
Hồng cũng thấp xa so với hiện tại. Lũ lụt tuy có xảy ra (vì trong quá
trình biển tiến) nhưng tần suất thấp. Đọc lịch sử thời Lý ta ít thấy lũ
lụt. Gần 100 năm sau khi dời đô đến Thăng Long, đến đời Lý Nhân Tông
(1107), con đê đầu tiên - đê Cơ Xá, mới được đắp.
Sang thời Trần, lũ lụt xuất hiện với tần số cao hơn. Ngay từ thời
Trần Thái Tông, vào năm 1236, lũ đã tràn vào cung Lệ Thiên. Năm 1238, lũ
tràn vào cung Thưởng Xuân. Năm 1245, vỡ đê Thanh Đàm, “nước sông tràn
ngập, rắn, cá chết nhiều”. Đến đời Trần Thánh Tông, năm 1265, vỡ đê Cơ
Xá, “người và súc vật chết đuối nhiều”. Năm 1271 “nước to, các đường phố
ở kinh đô phần nhiều phải đi lại bằng thuyền bè”... Do đó, Từ thời nhà
Trần, việc đắp đê và hộ đê được chú trọng. Năm 1248, Trần Thái Tông đã
đặt ra cơ quan Hà đê, có chánh, phó sứ. Hệ thống đê quai vạc được coi là
bước ngoặt trong lịch sử thủy lợi Việt Nam, được bắt đầu đắp từ triều
đại này. Ngoài việc đắp đê ngăn nước sông được mở rộng ra khắp các vùng
đồng bằng, nhà Trần còn bắt đầu cho đắp đê ngăn nước mặn để bảo vệ mùa
màng của dân.
Đến thời Lê, Nguyễn, công việc đắp đê tiếp tục được mở rộng. Hệ thống
đê điều là công trình vật chất vĩ đại nhất được tiền nhân để lại cho
hậu thế, là kết quả của biết bao tâm sức trách nhiệm của nhiều thế hệ.
Ngày nay, sự an nguy của thủ đô Hà Nội trước thiên tai đang phụ thuộc
rất lớn vào hệ thống đê điều được xây dựng từ ngàn năm trước.
Riêng đối với thành Thăng Long - Hà Nội, ngoài hệ thống đê bảo vệ,
cha ông ta còn từng bước nâng cao mặt bằng để thích nghi với thiên
nhiên.
Những cái hồ của Hà Nội chính là hệ quả của việc lấy đất đắp đê và
lấy đất tôn nền mà có. Thời gian qua đi, công trình sau được xây chồng
lên công trình trước. Đó là lý do khiến cho Hoàng thành bị chôn vùi,
biến thành 4 tầng văn hóa xếp chồng lên nhau như đã thấy.
Theo tính toán, tốc độ biển dâng bình quân trong 2.300 năm qua là 2,6
mm/năm. Biển dâng tạo trầm tích sông, khiến cho lòng sông cao dần lên,
sinh ra lũ lụt.
Cha ông ta không hề biết mình đang sống trong quá trình biển tiến,
nhưng những gì mà tiền nhân đã làm chính là việc ứng phó khá hữu hiệu
với tình trạng biển dâng mà ngày nay nhân loại đang tiến hành bằng các
chương trình quốc tế tốn nhiều tiền của.
Nghìn năm trước để lại cho nghìn năm sau một di sản đồ sộ cùng những
bài học, những vấn đề để cho con cháu giải quyết, tiếp bước...
Hoàng Hải Vân
Trích thanhnienonline